Thật Vì Sanh Tử - Phát Bồ Đề Tâm - Dùng Tín Nguyện Sâu - Trì Danh Hiệu Phật - Tâm Bồ Đề Cần Xuyên Suốt Cả Một Đời - Bồ Đề Tâm Chính Là Chân Tâm - Nam Mô A Di Đà Phật.

20. Giảng về pháp môn Niệm Phật

Pháp môn Niệm Phật chẳng có gì là lạ lùng, đặc biệt cả. Chỉ cốt yếu là tin sâu, tận lực hành trì mà thôi. Phật dạy: “Nếu ai chỉ niệm A Di Ðà Phật thì gọi là vô thượng thâm diệu thiền”. Ngài Thiên Thai nói: “Bốn thứ tam muội, cùng tên Niệm Phật, Niệm Phật Tam Muội là vua trong các tam muội”. Ngài Vân Thê nói: “Một câu A Di Ðà bao trùm tám giáo, nhiếp trọn năm tông”.

Tiếc rằng người đời nay nghĩ pháp Niệm Phật là tầm thường, thiển cận, cho là công phu của hạng ngu phu, ngu phụ. Ðó là vì tín chẳng sâu, hành cũng chẳng tận sức, suốt ngày lơ là, tịnh nghiệp chẳng hề đạt được. Dù có ai khéo bày phương tiện, muốn cho họ hiểu rõ môn tam muội này, nhưng cứ hễ động tới, họ liền cho rằng tham cứu chữ “ai” (ai là người niệm Phật) mới là hướng thượng, nào biết đâu cái tâm năng niệm - sở niệm hiện tiền vốn tự vượt khỏi những đối đãi, phân biệt, chẳng mảy may tác ý rời lìa hay tuyệt dứt cái gì. Tức là một câu Phật được ta niệm này đây cũng vốn tự vượt ngoài tình thức, lìa khỏi mọi phân biệt, phán đoán, nào phải còn nhọc nhằn đàm huyền thuyết diệu nữa ư?

Cốt sao tin cho đến nơi, giữ cho ổn, thẳng một bề mà niệm. Hoặc là suốt ngày đêm niệm mười vạn, hoặc năm vạn, ba vạn, lấy số câu quyết định chẳng thiếu làm chuẩn. Trọn cả đời này, thề chẳng biến cải. Nếu chẳng được vãng sanh thì tam thế chư Phật đều là nói dối. Một phen được vãng sanh sẽ vĩnh viễn chẳng thoái chuyển; các thứ pháp môn đều được hiện tiền.

Kỵ nhất hôm nay Trương Tam, ngày mai Lý Tứ. Gặp người bên Giáo, bèn toan tầm chương trích cú. Gặp kẻ bên Tông những mong tham cứu vấn đáp. Gặp người trì luật bèn toan đắp y, trì bát. Ðấy chính là kẻ chẳng hiểu mối đầu, chẳng tường gốc ngọn. Ðâu biết rằng niệm A Di Ðà Phật đến thuần thục thì những giáo lý chí cực của Tam Tạng mười hai bộ kinh cũng đều nằm trong ấy cả. Một ngàn bảy trăm công án, mấu chốt hướng thượng cũng nằm trong ấy cả. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, Tam Tụ Tịnh Giới đều nằm trong ấy cả. 

Chân thật niệm Phật, buông bỏ thân tâm, thế giới xuống, chính là Ðại Bố Thí. Chân thật niệm Phật, chẳng khởi tham, sân, si nữa, chính là Ðại Trì Giới. Chân thật niệm Phật, chẳng quản thị phi, nhân ngã, chính là Ðại Nhẫn Nhục. Chân thật niệm Phật, chẳng mảy may gián đoạn, lai tạp, chính là Ðại Tinh Tấn. Chân thật niệm Phật, chẳng đuổi theo vọng tưởng nữa, chính là Ðại Thiền Ðịnh. Chân thật niệm Phật, chẳng bị lầm lạc bởi những trò ngoắt ngoéo của người khác, chính là Ðại Trí Huệ.

Hãy thử kiểm điểm: Nếu còn chưa thể buông thân tâm, thế giới xuống, tham - sân - si vẫn còn tự hiện khởi, thị phi – nhân ngã vẫn còn tự ôm giữ, gián đoạn – lai tạp còn chưa trừ sạch, chưa vĩnh viễn diệt hết chuyện rong ruổi theo vọng tưởng, các thứ trò ngoắt ngoéo của người khác vẫn còn lung lạc được mình thì chưa phải là niệm Phật chân thật.

Muốn đạt đến cảnh giới Nhất Tâm Bất Loạn thì cũng không có thuật chi khác. Cách hạ thủ ban đầu hết là phải dùng xâu chuỗi để nhớ số cho phân minh; khắc định khóa trình, quyết định chẳng thiếu. Nếu là kẻ Sơ Tâm mà thích bàn chuyện Khán Thoại Ðầu, muốn chẳng chấp tướng, muốn học viên dung tự tại thì nói chung là hạng tin chẳng sâu, hành chẳng tận sức. Dù có giảng được mười hai phần giáo, hạ được một ngàn bảy trăm câu Chuyển Ngữ cũng chỉ là chuyện bên bờ sanh tử; đến lúc lâm chung, hoàn toàn vô dụng. Hãy trân trọng!

21. Giảng về Niệm Phật Tam Muội

Niệm Phật Tam Muội còn gọi là Bảo Vương Tam Muội, là vua trong các tam muội. Phàm là các tam muội Thiên, Viên, Quyền, Thật, không tam muội nào là chẳng phát xuất từ tam muội này, không thứ nào chẳng quy về môn tam muội này. Bởi vì Niệm Phật Tam Muội là yếu chỉ chí viên chí đốn, là phương tiện thiện xảo để lợi ích khắp cả ba căn.

Tâm tánh chúng sanh chỉ là một mà thôi. Nhưng cái Nhất Tâm ấy, vốn dĩ có đủ cả hai môn Chân Như và Sanh Diệt. Tùy duyên nhưng bất biến thì gọi là Chân Như Môn; bất biến mà tùy duyên thì gọi là Sanh Diệt Môn.

Nương vào Chân Như Môn nói ra Viên Ðốn Giáo, nương theo Sanh Diệt Môn, nói ra Thiên Quyền Giáo. Lìa Chân Như, vô Sanh Diệt thì Quyền ấy là Quyền trong Thật, nên mới có thể vì Thật lập bày Quyền. Lìa Sanh Diệt, vô Chân Như thì Thật ấy là Thật trong Quyền, nên mới có thể khai Quyền hiển Thật. Vì Thật lập Quyền, có ba Giáo: Tạng, Thông, Biệt. Khai Quyền hiển Thật thì chỉ có mỗi Viên Giáo.

Bốn giáo Quyền - Thật (Tạng, Thông, Biệt, Viên) không giáo nào chẳng phải là pháp môn Niệm Phật, tức là: niệm tự Phật, niệm tha Phật, song niệm tự tha Phật (niệm cả tự lẫn tha Phật). Ước theo bốn giáo, lập thành mười hai loại Niệm Phật Tam Muội. Thêm nữa, bốn thứ tam muội như Thường Hành v.v... cùng tên là Niệm Phật. Mỗi một tam muội đều có đủ mười hai thứ, cộng thành bốn mươi tám thứ.

Hơn nữa, niệm tha Phật thì hoặc là niệm tướng hảo, niệm pháp môn, niệm Thật Tướng. Theo đó, các pháp niệm tự Phật, song niệm cũng có thể chia làm ba loại như vậy. Nói gộp khắp cả bốn loại tam muội, bốn giáo thì thành ra một trăm bốn mươi bốn thứ. Mỗi một thứ lại có vô lượng cảnh, quán sai biệt, chẳng thể nói hết. Nhưng một pháp Trì Danh phát xuất từ kinh Di Ðà, không thuộc trong số những tam muội đã kể ở trên. Quán kinh dạy: “Nếu ông chẳng thể niệm đức Phật ấy thì hãy nên xưng Vô Lượng Thọ Phật”, tức là xưng danh vậy.

Pháp môn Trì Danh này tựa hồ chỉ dành cho căn cơ Trung, Hạ, nhưng lại là pháp tối viên, tối đốn. Bởi lẽ, danh hiệu được trì niệm ấy, bất luận là hiểu hay chẳng hiểu, bản thể của nó không chi chẳng phải là Nhất Cảnh Tam Ðế; tâm trì niệm chẳng luận là đạt hay không đạt, bản thể của nó không chi chẳng phải là Nhất Tâm Tam Quán.

Xin thử nói xem: sáu chữ Di Ðà là do danh mà lập danh, là do tâm mà lập danh, là do vì cả danh lẫn tâm mà lập danh, hay chẳng phải do tâm, chẳng phải do danh mà lập danh? Nếu do danh mà lập danh thì danh nên tự trì, cần gì phải đợi tâm trì? Lại nữa, nếu danh có thể tự trì, can dự chi đến tâm? Nếu do tâm mà lập danh, tâm này vốn đã có danh thì nếu lúc chẳng trì, sao danh chẳng hiện? Nếu vừa do tâm, vừa do danh mà lập danh thì danh tự có danh, cần gì phải đợi tâm? Tâm cũng tự có danh, cần gì phải đợi nơi danh?

Hơn nữa, danh tự ấy phần nào thuộc danh, phần nào thuộc tâm? Vả nữa, lúc chẳng trì, dù phân nửa danh thuộc về Danh chẳng tồn tại, thì lẽ ra phân nửa danh thuộc về Tâm phải tồn tại. Lúc tách ra đã là không, lúc hợp lại sao lại là có? Nếu phi danh phi tâm mà lập danh thì đã phi danh phi tâm sao lại còn có danh hiệu Di Ðà?

Suy xét danh như vậy thì tánh của danh hiệu là Không, duyên sanh huyễn có. Tánh của một danh hiệu chính là tánh của hết thảy danh hiệu. Danh hiệu chính là Trung Ðạo Thật Tướng của pháp giới. Nêu lên một danh hiệu liền gồm thâu tất cả, không một pháp nào ở ngoài danh hiệu cả. Cảnh được niệm đã như thế thì quán trí năng niệm cứ dựa theo đó mà suy.

Hơn nữa, ba cảnh này gộp chung lại gọi là Diệu Giả. Chỉ nêu chánh báo đã gồm cả y báo, nêu hóa chủ đã gồm cả đồ chúng, nêu giả danh liền gồm cả thật pháp. Một câu danh hiệu trọn khắp cõi tam thiên vậy.

Hơn nữa, ba pháp quán này gọi gộp chung lại là Không bởi kiếm tâm chẳng được. Thêm nữa, nếu danh là tâm, cái gì mới là danh? Nếu danh chẳng phải tâm, sao tâm trì được danh? Nếu tâm là danh, cái gì mới là tâm? Nếu tâm chẳng phải là danh, danh ăn nhập gì đến tâm? Trong khoảng giữa, chẳng phải là, chẳng phải không là, đó chẳng phải là Trung hay sao? Câu nói của ngài Hổ Khê nói: “Cảnh là Diệu Giả, Quán là Không. Cảnh, quán cùng tiêu chính là Trung. Không chiếu chưa hề có sau, trước. Nhất tâm viên tuyệt trọn chẳng còn dấu vết!” là nói về ý này.

Ngộ lý này mà trì danh thì một xưng, một niệm liền viên đốn Vô Thượng Bồ Ðề. Nếu chưa ngộ nhưng lần chuỗi nhớ số khắng khít suốt năm thì chưa từng lúc nào chẳng ngầm hợp đạo mầu, hoàn toàn thuộc trong diệu cảnh, diệu quán. Huân tập lâu ngày, tánh đức dần dần hiển lộ: “Như người ướp hương, thân có mùi thơm. Chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai”. Ðấy chính là lý do vì sao chư tổ Liên Tông cực lực hoằng dương. Ai là người có trí mà lại bỏ pháp này, tìm cầu ngõ quanh nào khác nữa ư?

22. Bàn về Niệm Phật Tam Muội

Ông Chương Khiết Chi ở Toàn Thành kể rằng cha mình là cụ Vũ Hành, suốt đời thực sự tu hành, lâm chung ngồi niệm Phật qua đời, và mẹ ông ta là bà Vũ Thạc Nhân (8), thừa dịp ấy thọ Tam Quy, Ngũ Giới, chánh niệm nhân duyên qua đời tốt đẹp. Ông xin tôi dạy cho một lời để trang nghiêm Tịnh Ðộ.

Kinh Tịnh Danh dạy: “Nếu muốn tịnh cõi nước thì hãy tịnh tâm mình”. Hai vị trên tâm đã tịnh thì lẽ đâu cõi nước chẳng tịnh? Vả nữa, cư sĩ lòng hiếu chẳng khuyết, quy hướng sâu xa nơi pháp môn, tâm lại tịnh thì có đâu cõi nước lại chẳng càng thêm tịnh? Ðâu cần phải đợi tôi nói, nhưng tôi đành tạm nói thôi.

Sách Diệu Tông Sao ghi: “Ngũ trược nhẹ thì cõi Ðồng Cư thanh tịnh, khéo hiểu Không thì cõi Phương Tiện thanh tịnh, viên chứng tam quán thì cõi Thật Báo thanh tịnh, chứng rốt ráo thì cõi Thường Tịch thanh tịnh”. Ôi, đạo Tịnh Ðộ hệt như đường lớn nên chẳng khó biết; nhưng lý Tịnh Ðộ hệt như biển cả há có thể trong một bước rảo khắp hết nổi sao? 

Xét ra, do người đã khuất tập khí ngũ trược nhẹ ắt phải tịnh được cõi Ðồng Cư. Còn như để tịnh các cõi Phương Tiện, Thật Báo, Tịch Quang thì kế sách khéo léo hoàn toàn phải nhờ vào lòng hiếu của ông. Cư sĩ hãy nên quan sát kỹ: Một niệm hiếu thuận đây là ở trong, ở ngoài, hay ở khoảng giữa? Là quá khứ, hiện tại hay vị lai? Là xanh, vàng, đỏ, trắng ư? Là dài, ngắn, vuông, tròn chăng? Là tự sanh, do cái khác sanh, cùng sanh hay không do nhân gì mà sanh ư? Là có, là không, cũng có cũng không hay chẳng có chẳng không? Quán như thế rồi chẳng giữ lấy tâm, chẳng chấp lấy pháp, hiểu rõ bản thể của lòng hiếu chính là Không, là Giả, là Trung.

Do là Không nên Kiến Tư được tịnh, do là Giả nên Trần Sa tịnh, do là Trung nên Vô Minh tịnh. Do ba Hoặc đã tịnh nên ba cõi cũng tịnh. Ba cõi trong tâm mình đã tịnh thì ba cõi trong tâm cha mẹ cũng tịnh theo, bởi không có cha mẹ ở ngoài tâm.

Như quán một niệm suy nghĩ về chữ Hiếu, tùy ý thanh tịnh được ba Hoặc; quán hết thảy thiện niệm, hết thảy ác niệm, hết thảy vô ký niệm (9) cũng đều như thế cả. Ðấy gọi là Giác Ý tam muội, còn gọi là Niệm Phật tam muội.

Vì biết tự tâm chính là Không nên được thấy Hóa Thân Phật. Biết tự tâm là Giả nên được thấy Báo Thân Phật. Biết tự tâm là Trung nên được thấy Pháp Thân Phật. Như quán tự tâm thấy được ba [thân] Phật thì niệm ba Phật cũng chính là hiển phát ba đức của tự tâm (Pháp Thân, Giải Thoát, Bát Nhã). Bởi thế mới nói: Quán Thật Tướng của thân thế nào thì cũng quán Phật thế ấy. Quán Thật Tướng của Phật thế nào, quán thân thế ấy. Chúng sanh và Phật chẳng hai, cha con cùng một thể. Người độ, kẻ được độ đều chẳng thể nghĩ bàn.

Dè dặt chớ nên nói: Chỉ quan tâm đến cái có trước lúc cha mẹ chưa sanh. Nếu ông nói đến cái có trước khi cha mẹ chưa sanh ấy thì đã sớm có vô biên sanh tử. Chỉ nhìn suốt thấu nơi một niệm hiện tiền thì nào có cái gì là do cha mẹ sanh đâu? Bởi thế mới nói: “Thập thế cổ kim, thủy chung chẳng lìa ý niệm ngay hiện tại”. Trọn khắp trước mắt, không pháp nào thừa. Hãy suy nghĩ chín chắn!

23. Nói với Dựng Liên (còn gọi Bí Quyết Cầu Sanh Tịnh Ðộ)

Mùa Ðông năm Quý Mùi, tôi giảng kinh Pháp Hoa tại Phổ Ðức, cư sĩ Lý Thạch Lan quên cả tuổi già, đến quy y trước hết. Lúc ấy cụ vẫn còn phàm tình cầu có con, tôi răn: “Thanh tịnh lòng dục”. Ba năm sau, tâm cầu con chuyển biến, tạc tượng Phật, sáng tối luyến mộ, nhất ý cầu sanh Tịnh Ðộ. Tôi bảo cụ:

- Chuyện sanh sản của thế gian máu mủ tạp loạn, sao gọi là tịnh được? Chỉ có liên hoa hóa sanh mới là sự sanh nở thanh tịnh. Tôi đặt biệt hiệu cho cụ là Dựng Liên (mang thai sen). Tôi lại khuyên cụ hãy nhớ yếu quyết để làm bằng cứ. Cổ nhân nói: “Ái chẳng nặng, chẳng sanh Sa Bà. Niệm bất nhất, chẳng sanh Cực Lạc”. Cư sĩ đã chẳng cầu con nữa thì lòng ái đã nhẹ, lại còn có thể tạc tượng Phật thì niệm đã chuyên nhất.

Lại còn có yếu quyết là: Không chi khẩn thiết bằng hai câu “tâm này là Phật, tâm này làm Phật”. Bởi lẽ, chiên đàn chẳng qua chỉ là gỗ trong thế gian mà thôi, đốt thì thành than, chạm trổ liền thành tượng, chẳng phải là tùy tâm mà thành hay sao? Ðã tạo thành tượng rồi, sáng tối lễ bái, chiêm ngưỡng, sáng tối giữ trong tâm, trong mắt, ngoài tâm không Phật thì chẳng phải là cái tâm ấy chính là Phật hay sao?

Nếu biết tượng Phật khắc chạm ấy đích xác là “tâm làm, tâm là” thì sẽ biết Cực Lạc, Di Ðà cũng chỉ là “tâm làm, tâm là” mà thôi! Nếu biết Cực Lạc, Di Ðà là “tâm làm, tâm là”, sẽ biết mười phương tam thế hết thảy chư Phật cũng rành rành là “tâm làm, tâm là”. Nếu biết hết thảy chư Phật là “tâm làm, tâm là” thì biết hết thảy Tịnh Ðộ cũng rành rành là “tâm làm, tâm là”.

Dùng nhân thanh tịnh duy tâm để nuôi dưỡng tịnh quả duy tâm, vô sanh nhưng lại sanh, sanh chính là vô sanh. Vin vào bằng cứ ấy mà vẫn phải đọa nghi thành là chuyện nhất định không bao giờ có. Nếu ngộ được yếu quyết này rồi mà vẫn bảo pháp môn Tịnh Ðộ chẳng phải là chí đốn, chí viên thì lại càng là điều không thể có!

24. Luận về Trì Danh Niệm Phật cửu phẩm vãng sanh

Nếu muốn mau thoát khỏi nỗi khổ luân hồi thì không gì bằng trì danh niệm Phật, cầu sanh thế giới Cực Lạc. Nếu muốn quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc thì lại không gì bằng lấy Tín để dẫn đường, lấy Nguyện để thúc đẩy. Tin xác quyết, nguyện khẩn thiết, dù tán tâm niệm Phật cũng chắc chắn được vãng sanh. Lòng tin chẳng chân thật, nguyện chẳng dũng mãnh, dù nhất tâm bất loạn cũng chẳng được vãng sanh.

Thế nào là Tín? Một là tin vào nguyện lực của Phật A Di Ðà. Hai là tin vào lời dạy của đức Thích Ca Văn Phật. Ba là tin vào lời khen ngợi của sáu phương chư Phật. Phàm là bậc chánh nhân quân tử trong thế gian còn chẳng nói dối, huống hồ là Di Ðà, Thích Ca, sáu phương chư Phật há lại vọng ngữ sao? Chẳng tin điều này thì thật chẳng còn cách nào cứu được nữa. Vì thế, trước hết phải sanh lòng tin sâu xa.

Thế nào là Nguyện? Trong hết thảy thời, chán ghét nỗi khổ sanh tử cõi Sa Bà, ưa thích, hâm mộ niềm vui Bồ Ðề cõi Cực Lạc. Làm bất cứ điều gì thiện hay ác, nếu thiện thì hồi hướng cầu vãng sanh, ác thì sám nguyện cầu vãng sanh, không còn chí gì khác. Ðấy gọi là Nguyện.

Tín - Nguyện đã đầy đủ thì Niệm Phật chính là chánh hạnh; cải ác tu thiện đều là trợ hạnh. Tùy theo công sức sâu cạn mà chia thành chín phẩm, bốn cõi Tịnh Ðộ, mảy may chẳng lạm. Chỉ cần tự kiểm điểm lấy mình, chẳng cần phải hỏi người khác nữa.

Nghĩa là: tín sâu nguyện thiết niệm Phật, nhưng lúc niệm Phật, tâm nhiều tán loạn thì là Hạ Phẩm Hạ Sanh. Tín sâu, nguyện thiết niệm Phật nhưng lúc niệm Phật tán loạn giảm thiểu thì là Hạ Phẩm Trung Sanh. Tin sâu, nguyện thiết niệm Phật, nhưng lúc niệm Phật lại chẳng tán loạn thì là Hạ Phẩm Thượng Sanh. Niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si thì thuộc vào ba phẩm Trung Sanh. Niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, tùy ý đoạn Kiến Tư Hoặc hay Trần Sa Hoặc trước và cũng hàng phục được vô minh thì thuộc vào ba phẩm Thượng Sanh. Vì thế, tín nguyện trì danh niệm Phật sanh trong chín phẩm, đích xác chẳng lầm.

Hơn nữa, tín nguyện trì danh, tiêu phục nghiệp chướng, đới nghiệp vãng sanh chính là Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ. Tín nguyện trì danh, đoạn sạch Kiến Tư Hoặc mà vãng sanh thì là Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ. Tín nguyện trì danh, phá tan một phần vô minh mà vãng sanh chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ. Tín nguyện trì danh, trì đến chỗ cứu cánh, đoạn sạch vô minh mà vãng sanh thì chính là Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ. Vì thế trì danh sanh trong tứ độ cũng là điều đích xác chẳng lầm vậy.

Hỏi: Trì danh như thế nào để đoạn được vô minh?

Ðáp: Ðối với danh hiệu Phật được trì, chẳng luận là ngộ hay chẳng ngộ, không gì chẳng là “nhất cảnh tam đế” (9). Cái tâm trì niệm chẳng luận là đạt hay không đạt, không gì chẳng là “nhất tâm tam quán” (10). Chỉ vì chúng sanh vọng tưởng chấp trước, tình kiến phân biệt nên chẳng thể khế hợp viên thường. Nào có biết rằng [tâm] năng trì chính là Thỉ Giác. [Danh hiệu Phật] được trì (sở trì) chính là Bổn Giác. Nay cứ thẳng thừng mà trì thì ngoài chuyện trì niệm ấy không có Phật, ngoài Phật chẳng có trì niệm. Năng - Sở bất nhị thì Thỉ Giác hợp với Bổn Giác, ấy gọi là Cứu Cánh Giác.

Hỏi: Thỉ Giác đã hợp với Bổn Giác thì ngay đó chính là Thường Tịch Quang, sao còn nói là vãng sanh?

Ðáp: Nếu đã thấu đạt ngay đó chính là Thường Tịch Quang thì nói đến vãng sanh nào có ngại gì? Bởi vãng tức là chẳng vãng, không vãng mà vãng, sanh chính là vô sanh, vô sanh mà sanh. Văn Thù, Thiện Tài sanh về Tây Phương là bởi lẽ đấy.

Ôi chao! Nam tử! Ðừng mất công suy nghĩ nữa.

25. Lời phổ thuyết ở Nhân Nghĩa Viện thuộc Phong Nam, Hấp Tây

...Nay Huyền Thúy Ngô cư sĩ vì khắp hàng Tăng, Tục, xin tôi khai thị pháp môn siêu sanh thoát tử, Ngẫu Ích tự xét mình chưa siêu sanh thoát tử, làm sao khai thị cho người được? Nhưng dù cùng trong biển sanh tử, đối với pháp xuất sanh tử, tôi còn may mắn biết chút ít đầu mối chân chánh. Vì thế, tôi chẳng ngại cùng các nhân giả luận bình, thương lượng bước đường tối sơ.

Nếu thật sự muốn siêu sanh thoát tử thì thứ nhất là chẳng được suy nghĩ so đo, thứ hai là chẳng được cậy mình nóng vội, thứ ba là chẳng được xen tạp danh lợi. Phía Nam đi xuống đất Mân (Phước Kiến), phía Bắc đi lên Yên, nếu lầm đường một chút là càng đi càng xa. Ðây thực là lời lời huyết lệ, chữ chữ nhói lòng! Chỉ e: “Sầu nhân mạc hướng vô sầu thuyết, thuyết dữ vô sầu tổng bất tri” (Dạ sầu chớ kể người vui, giãi bày cách mấy ai người hiểu cho!)

Chư nhân giả! Ðã biết sầu chưa? Phật dạy: Ðược thân người như đất dính trên móng tay, mất thân người như đất trong đại địa. Một hơi thở ra chẳng hít vào được, liền hướng đến thai lừa, bụng ngựa, ám độn, càn rỡ, trải qua ngàn đời, trăm kiếp mới ló đầu ra, biết là lúc nào? Huống là đời mạt, tà sư thuyết pháp như cát sông Hằng. Một kẻ mù dẫn lũ đui, kéo nhau sụp hầm lửa.

Vì thế, Vĩnh Minh đại sư nói: “Không Thiền, có Tịnh Ðộ. Vạn người tu, vạn người đỗ”. “Có Thiền, không Tịnh Ðộ. Mười người chín lầm nẻo”. Hám Ông đại sư lại nói: “Hiện thời có Thiền không Tịnh Ðộ, nào phải là chỉ là chín người lầm lạc, dám bảo đảm là mười người đều lạc cả!” Ðấy đều là những lời chân ngữ, thực ngữ, đại từ bi sâu xa.

Lại xin chư nhân giả! Ðừng đọa vào đồng cuồng, nẻo lấp, phải đau đáu nghĩ thẳng vào lẽ vô thường, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tịnh Ðộ. Ðời này chẳng độ được thân này, còn đợi kiếp nào mới độ được. Trân trọng!

Bình luận Ngẫu Ích Đại Sư Pháp Ngữ ( Phần 4 )
Ảnh đại diện
Anh   Chị
Video mới nhất
Sự thật kỳ lạ ở Cõi Tây Phương Cực Lạc - Pháp Sư Tịnh Không | Phật Pháp Nhiệm Màu

Sự thật kỳ lạ ở Cõi Tây Phương Cực Lạc - Pháp Sư Tịnh Không | Phật Pháp Nhiệm Màu

Xem video
KC122- Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng- Phẩm Thứ 5 - Buổi 2 || Thích Thiện Trang

KC122- Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng- Phẩm Thứ 5 - Buổi 2 || Thích Thiện Trang

Xem video
KC120- Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng- Phẩm Thứ 4 - Buổi 23 || Thích Thiện Trang

KC120- Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng- Phẩm Thứ 4 - Buổi 23 || Thích Thiện Trang

Xem video
Giới Luật 026- Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập - Kinh Ngũ Giới Tướng - Buổi 12- Giới Tà Dâm - Phần 2

Giới Luật 026- Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập - Kinh Ngũ Giới Tướng - Buổi 12- Giới Tà Dâm - Phần 2

Xem video
KC121- Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng- Phẩm Thứ 5 - Buổi 1 || Thích Thiện Trang

KC121- Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng- Phẩm Thứ 5 - Buổi 1 || Thích Thiện Trang

Xem video
KC120- Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng- Phẩm Thứ 4 - Buổi 22 || Thích Thiện Trang

KC120- Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng- Phẩm Thứ 4 - Buổi 22 || Thích Thiện Trang

Xem video

Thống Kê Truy Cập

  • Đang truy cập: 3
  • Hôm nay: 34
  • Tháng hiện tại: 3564
  • Tổng lượt truy cập: 125295
mopham

Các bậc tiền bối của Tịnh Độ

Pháp môn Tịnh độ Lý cực cao sâu, Sự cực giản dị. Do vậy, người thiên tư thông mẫn, tri kiến cao siêu thường xem Tịnh độ là pháp tu của bọn ngu phu, ngu phụ, chẳng chịu tu trì. Nào biết đây là pháp môn rốt ráo để mười phương Tam thế hết thảy chư Phật, trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sinh, thành thủy, thành chung. Họ thấy kẻ ngu phu, ngu phụ tu được pháp nầy bèn coi thường, sao chẳng xét trong hội Hoa Nghiêm, bậc đã chứng bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật, vẫn phải dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sinh Tây Phương Cực Lạc ngõ hầu viên mãn Phật quả? Miệt thị pháp môn Tịnh độ chẳng chịu tu là coi những vị trong hội Hoa Nghiêm thuộc hạng người gì? Chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm có đáng nên tôn trọng hay nên coi thường đây?
Có thái độ như vậy không có gì khác hơn là do chưa xét kỹ nguyên do của từng pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như Tự lực, Phật lực, đại, tiểu, khó, dễ, nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã xét kỹ, há chẳng học đòi Hoa Nghiêm hải chúng, nhất trí tiến hành cùng cầu vãng sinh ư? 

-ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC-

 

Thiết Kế Web Bởi SangTaoAds.Com